tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc (tức cái bến có sóng lớn), hay còn gọi là Dâm Đàm (hồ sương mù) vì thường vào lúc sáng sơm và
Gió chuyển cành trúc là đà,Tiếng chuông Hải Đức, canh con kê mặt sông ». (Non Nước Khánh Hòa - Nguyễn Đình Tư)Năm Mậu Ngọ, 1918 Phạm Quỳnh, danh sĩ đất Thành Phố Hải Dương đã danh tiếng không riêng biệt gì sinh hoạt Thành Phố Hà Nội nhưng khắp cùng tổ quốc nlỗi lời
lirik lagu maju tak gentar bela yang benar. Vũ Quốc ThúcDuy Vũ sưu tầmMới đây tôi được đọc trên mạng lưới Internet một bài phiếm luận lý thú về hai câu thơ, thời tiền đô hộ Pháp. Đó là hai câu lục bátGió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ...Ngay từ hồi còn học ở Trường Thành Chung Nam Định 1934 - 1937, tôi đã được đọc hai câu thơ này, nhưng không phải là tiếng chuông Thiên Mụ mà là tiếng chuông Trấn Vũ. Theo tôi nhớ thì đây là hai câu đầu của một bài thơ tứ tuyệtGió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,Mịt mù bãi cát màn sương,Nhịp chày Yên Thái , bóng gương Tây Hồ..Thiên Mụ là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Huế, còn Trấn Vũ là tên một ngôi chùa cũng rất nổi danh ở phía tây thành Thăng Long cũ tức Hà Nội. Vậy thì địa danh nào mới đáng coi là chính xác? Dĩ nhiên những ai sinh trưởng ở miền Trung, đặc biệt ở vùng Thừa Thiên, có xu hướng chọn địa danh Thiên Mụ. Trái lại những người gốc miền Bắc tin rằng địa danh Trấn Vũ mới đúng sự Thiên MụBản thân kẻ viết bài này không bao giờ có đầu óc địa phương phi lý như vậy trái lại chúng tôi rất trân quý đồng bào miền Trung. Tuy nhiên khi bàn về một đề tài liên can tới văn học sử chúng ta cần phải khách quan và tôn trọng tinh thần khoa học. Tôi tin rằng tiếng chuông trong câu thơ trên là chuông chùa Trấn Vũ vì những lý do sau Trấn VũTrước hết, địa danh Trấn Vũ không đưa ra một cách đơn lẻ mà đặt trong một tổng thể gồm 4 địa danh Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ. Cả bốn địa danh này đều thuộc một khu vực chung là vùng tây cố đô Thăng Long, tức Hà Nội cũ. Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một đường đê ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một huyện sát thành Thăng Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh tiếng như làng Bưởi, làng Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân... Đặc biệt là làng Yên Thái chuyên nghề làm giấy bản trong làng suốt ngày vang tiếng chày giã bột giấy của nhân dân. Như vậy toàn bài thơ tứ tuyệt liên can tới một vùng nhất định là vùng ngoại thành phía Tây của cố đô Thăng Long. Nếu cho là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ thì làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương, một nơi cách xa Huế hàng nghìn dặm? Hồ Tây Đọc bài thơ tứ tuyệt nói trên, ta có thể mường tượng là tác giả đã sáng tác ở đâu trong hoàn cảnh nào. Rõ ràng là lúc đó ông hay bà? ta đang ngụ ở một nơi trông ra Hồ Tây cách chùa Trấn Vũ cũng như làng Yên Thái không xa lắm nên mới nghe được tiếng chuông chùa cũng như tiếng chày giã bột giấy của dân làm giấy. Trước biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945 kẻ viết bài này từng cư ngụ ở đường Pépinière, một con đường đi từ đường Quan Thánh qua trường Bưởi tức Lycée du Protectorat sau đổi tên là trường Chu Văn An, tới Vườn Ươm Cây của Thành Phố Hà Nội vì thế con đường mới mang tên Pépinière rồi tới các làng Thụy Khê, Yên Thái. Đứng trên gác ngôi nhà tôi cư ngụ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy Vườn Ươm Cây và đàng xa là mặt nước Hồ Tây. Như vậy việc tác giả bài thơ thuật rằng mình nhìn thấy mặt nước Hồ Tây sau bãi cát phủ sương mù ở bờ hồ đồng thời nghe thấy tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái, là việc có thực, không phải bịa đặt để thi vị hóa. Tác giả đã ngẫu hứng vào lúc nào? Theo tôi nghĩ lúc đó là bình minh vì bốn chữ canh gà Thọ Xương. Hồi theo cấp tiểu học, tôi từng thuộc lòng một bài thơ khác khởi đầu như sau Trống canh năm gà vừa gáy sáng,Bừng mắt dậy trời đã rạng đông!Ngắm phong cảnh đẹp vô cùngHỏi ai thêu dệt? Ấy Ông Thợ Trời!Tác giả không nói tới tiếng trống cầm canh của đồn Thọ Xương mà lại nói tiếng gà gáy. Tất nhiên gà gáy vào lúc bình minh chứ không gáy ban đêm có lẽ tiếng gà gáy đã vang lên cùng lúc với tiếng trống điểm canh năm chăng? Vì thế tác giả mới nảy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh là con gà gáy điểm canh! Đây là một nghệ thuật chơi chữ táo bạo của các nhà thơ, nhà văn, có dụng ý đánh động sự hiếu kỳ của độc giả hay thính giả. Từ xưa đến nay đã ai thấy gà gáy điểm canh suốt đêm đâu! Chẳng trách có người đã hiểu lầm và dịch canh gà Thọ Xương là chicken soup of Thọ Xương bouillon de poulet de Thọ Xương!Tiếng chuông chùa cũng như tiếng chuông giáo đường thường có ảnh hưởng gây xúc động trong tâm hồn những người nhạy cảm. Thời Nhà Đường, một thi sĩ Trung Hoa, ngủ trên thuyền ở bến Cô Tô, giữa đêm bỗng nghe thấy hồi chuông từ chùa Hàn San vọng lại. Ông ta ngẫu hứng đã sáng tác một bài thơ trứ danh trong đó có hai câuCô Tô thành ngoại Hàn San TựDạ bán chung thanh náo khách thuyền!Thuyền ai đậu bến Cô TôNửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn SanHồi chuông mà tác giả của chúng ta đã nghe thấy không có tính cách bất thường như hồi chuông giữa đêm khuya của chùa Hàn San đó chỉ là hồi chuông được gióng lên mỗi buổi sáng. Tuy nhiên đối với những người đang có chuyện ưu tư hay phiền não nó nhắc nhở cho họ rằng mọi sự trên cõi đời trần tục này đều là vô thường!Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!Tác giả của chúng ta có ở trong trạng thái tâm thần đó không? Ta không thể quyết đoán, chỉ biết chắc rằng ông hay bà ta đã chú tâm đến hồi chuông này. Có thế thôi!Dựa trên các chi tiết trong bài thơ, tôi giả thiết như sau tác giả vừa thức dậy, nhìn ra ngoài vườn thì thấy nhiều cành trúc trong bụi trúc trước nhà la đà trước gió, rồi nghe thấy tiếng chuông ban mai của chùa Trấn Vũ vang dội cùng lúc với tiếng gà gáy từ phía đồn canh của Huyện lỵ Thọ Xương. Tác giả thầm nghĩ "Thật chẳng khác chi con gà đã thay lính cầm canh báo cho ai nấy biết rằng canh năm tới rồi!". Tác giả nhìn về phía bãi cát ở bờ Hồ Tây, thì thấy sương mù mờ mịt. Mặc dù còn tranh tối tranh sáng như vậy, đã nghe thấy tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái. Rồi qua màn sương, tác giả thấy mặt nước Hồ Tây lóng lánh như một tấm gương vĩ đại... Ngẫu hứng nhà thơ đã sáng tác bốn câu lục bát, còn được truyền tụng cho đến ngày làng Yên Thái ngày nayRõ ràng đó là một bài thơ tả cảnh, rất hiện thực. Tuyệt nhiên không phải là thơ tả tình vì không có một câu nào, một từ nào, nói lên tình cảm của chủ thể. Điều bất ngờ là do các biến chuyển của thời cuộc, bài thơ dần dần trở thành thơ tả tình, hơn thế nữa đã được dùng như một thông điệp để biểu lộ một thái độ chính Sự biến chuyển thứ nhất là việc nước Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa 1863 rồi đặt nền bảo hộ trên hai miền Bắc Kỳ và Trung Kỳ 1884. Lợi dụng tình trạng khiếp nhược của Triều đình Huế, nhà cầm quyền Pháp đã dần dần biến chế độ bảo hộ trên giấy tờ thành một chế độ trực trị trong thực tế. Những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định ở Bắc Kỳ hoàn toàn do các cai trị viên Pháp quản lý. Bộ mặt của những thành phố này thay đổi sâu xa. Trước cảnh tang thương ấy, nhiều sĩ phu cựu học cảm thấy nhớ tiếc thời đất nước còn tự chủ thời Hà Nội còn gọi là Thăng Long với những hình ảnh, những âm thanh được ghi trong bài thơ tứ tuyệt "Gió Đưa Cành Trúc La Đà"... Các cụ đã ngâm nga bài này để nói lên tâm trạng hoài cổ của mình và gián tiếp bầy tỏ nguyện vọng cần vương phục quốc. Nhưng sau sự thất bại của các nhà kháng chiến như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật... của các phong trào duy tân như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, sau khi thấy các vị vua có tinh thần đấu tranh như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái bị lưu đày ra hải ngoại... nhiều cụ đã chán nản, chua chát ghi nhận những sự thật ngang tai chướng mắt. Thí dụ Cụ Tú Trần Kế Xương trong mấy câuVợ lăm le ở vú!Con tấp tểnh đi bồi!Khách hỏi nhà Ông đếnNhà Ông đã bán rồi!b Sự biến chuyển thứ hai xẩy ra trong những năm đầu của thập kỷ 1930. Sau khi những âm mưu khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng và của Đảng Cộng Sản Đông Dương bị nhà cầm quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp, Pháp áp dụng chính sách "lập lờ đánh lận con đen" với hy vọng ru ngủ nhân dân hai miền Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Bảo Đại được Pháp đưa về hồi loan chấp chính, Triều đình Huế được tân trang với sự bổ nhiệm một số nhân vật tân học vào Viện Cơ Mật nhưng cơ cấu chính trị và hành chính vẫn giữ nguyên vẹn với các định chế lỗi thời như định chế quân chủ thiên mệnh, định chế quan lại, định chế xã thôn tự trị... Nguyện vọng của các tổ chức đấu tranh và những người yêu nước là phải canh tân toàn diện chứ không phải là cải cách nửa vời, giả dối! Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" bị coi như tượng trưng xu hướng thủ cựu, một xu hướng chỉ có lợi cho nhà cầm quyền thuộc địa. Sau khi vua Bảo Đại bổ nhiệm sáu vị thượng thư "tân học" để thay thế lục bộ cũ, tuần báo hài hước Phong Hóa đã đăng một bức hí họa trong đó sáu cụ "Thượng mới", quần trùng áo dài, đeo thẻ bài lủng lẳng, chen chúc nhau trên một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên sông Hương. Dưới bức họa ghi hai câu thơ lục bátGió đưa cành trúc la đàMột thuyền chật ních bài ngà thượng thư ..Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" trước kia được coi là biểu tượng của thái độ chống thực dân Pháp thì nay đã biến thành biểu tượng của thái độ thủ cựu, hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa Pháp!c Sự biến chuyển thứ ba xẩy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn đã mượn bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Cổ NgưBa mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu họ và những người Việt không chịu hồi hương sau khi chế độ cộng sản Liên Xô tan rã, đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh thiếu niên không biết gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam. Nhiều người nói tiếng Việt còn không sõi. Do đó, khi họ đọc bài thơ trứ danh "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn câu thơ. Nếu tra tự điển để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm hại như tác giả bài phiếm luận nói trên đăng trên internet đã chứng minh một cách rí rỏm. Chẳng hạn người ta có thể nghĩ rằng "la đà" là một đàn la và lạc đà rồi suy luận rằng cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông đồng của chùa giống như chuông điện chỉ cần bấm là kêu leng keng, còn canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó để làm bài thơ trào phúng sau đâyRoi tre vun vút vung raLũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...Vợ Trời giáng một hồi chuôngGọi về ăn bát canh xương gà Tầu!Nếu dụng ý của tác giả bài phiếm luận là chế giễu các thanh thiếu niên không có đủ kiến thức về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, thì tôi nghĩ rằng cũng tội nghiệp cho họ quá! Họ đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như ông, cha của họ!Kẻ đáng trách chính là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông, cha của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc mà chúng ta đã hấp phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ “Gió đưa cành trúc la đa” đã giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiểm họa vong bản đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng ta không nên trì hoãn nữa cần phải làm một cố gắng quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này./.Vũ Quốc Thúc ParisGhi chú Đền Voi Phục thuộc làng Thụy Khuê cũ, nơi thờ Uy Linh Lang Đại Vương, một vị hoàng tử thời Lý đã có công lớn trong cuộc chiến chống quân Tống xâm lược năm đình làng Yên Thái, ngay ngã tư chợ Bưởi trên đường Thụy Khuê. Nơi đây vẫn thường diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của người dân của phường Bưởi, quận Tây Hồ. Làng Yên Thái ngày trước vốn nổi tiếng với nghề làm giấy dó, đã đi vào lòng người qua thơ ca, ca lại Trang Chính
"...Canh gà Thọ Xuơng" chuyện bịa như thật Có câu chuyện cười dân gian thời nay kể như sau Một sinh viên nước ngoài học tiếng Việt làm bài văn bình 2 câu thơ “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”; vốn từ còn non, đọc chữ thông thường thì hiểu nhưng đến chữ khó thì phải tra từ điển. Gặp chữ “la đà”, tìm trong từ điển không có, chỉ có “la” là con vật lai giữa lừa và ngựa và “đà” nghĩa là cây gỗ lớn …! Băn khoăn lắm, lại tra thêm thì thấy có từ “lao” nghĩa là phóng đi thật mau, anh ta chắc mẩm “…dễ có khi đề bị đánh máy nhầm “lao” thành ra “la” chăng ?!” – vậy là Gió đưa cành trúc lao đà – ý nói gió mạnh lắm?! Đến câu 2, gặp chữ “Thiên Mụ” – tra sách thấy chữ “thiên” là trời; anh ta dịch được ngay “Thiên Mụ” là “Mụ Trời”… Chữ “canh gà” thì dễ hiểu, hẳn là món canh nấu thịt gà. Lại tra chữ thọ xương thì “thọ” là nhận lấy. Thọ xương hẳn là hóc xương! Sẵn có khiếu làm thơ, viết xong bài văn, chàng sinh viên thêm ngay vào cuối một bài thơ diễn nghĩa “Bão thổi bay ngọn trúc./ Bay cả đà ven đường,/ Mụ trời đánh một tiếng chuông./ Canh gà húp vội hóc xương mấy lần”. Chuyện trên là tưởng tượng nhưng lại có thật… bởi đã từng có kẻ là người Việt chính gốc mà đã hiểu “canh gà” ở đây là canh thịt gà. Trước 1975, một vị dân biểu miền Nam trong dịp công cán nước ngoài đã từng giải thích với khách ngoại quốc “canh gà Thọ Xương” trong câu thơ là “Thọ Xương’s chicken soup” xúp thịt gà của Thọ Xương. “CANH GÀ THỌ XƯƠNG” VỚI “CHUYỆN THẬT NHƯ BỊA” VÀ “CHUYỆN BỊA NHƯ THẬT” Cùng chuyện “canh gà” trên, mới đây đã xảy ra một chuyện thật như bịa Tháng 10 năm 2012, một cô giáo trung học tại Hà Nội – cô đã từng đỗ thạc sĩ với điểm số 10/10 – ra đề văn cho học sinh lớp 7 yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận về bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.”. Học sinh làm bài, có em đã viết “Hà Nội còn đặc sắc với những món ăn nổi tiếng như “canh gà Thọ Xương”. Bài văn đã được cô giáo chấm và cho điểm 8+. Không rõ vì thiếu kiến thức hay chỉ vì chấm bài qua loa, cô không phát hiện lỗi của học sinh nhưng sự việc đã làm bùng lên làn sóng dư luận khá gay gắt buộc nhà trường phải tổ chức kiểm tra. Cô giáo sau khi giải trình vụ việc đã làm đơn xin nghỉ dạy… Vừa nghỉ việc về quê xong thì cô lại được bênh vực bởi một làn sóng mới nhiều người trên trang mạng đã tỏ thái độ thông cảm, tha thiết mong muốn cô trở lại trường… và đến đây lại bắt đầu một câu chuyện mới chuyện bịa như thật. Chuyện khởi đầu bởi bài “Canh gà Thọ Xương đúng là…canh gà?” đăng trên Blog Hiệu Minh1 của một độc giả có tên nick là Hocmon. Bài viết có căn cứ, có dẫn chứng rành mạch như sau “Nguyên bản cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập hiện đang lưu trữ tại thư Viện nghiên cứu Hán Nôm. Sách này có chép bài thơ mang tên “Tối ức Thọ Xương thang” Nhớ nhất canh Thọ Xương của Dương Khuê. Nguyên văn viết 裊裊搖風竹, 蒼蒼鎮武鐘,壽昌多故舊, 同買燉雞湯。煙鎖西湖水. 杵驚安泰鄉. 河城斯美景, 最耐客思量. “Niểu niểu dao phong trúc, thương thương Trấn Vũ chung, Thọ Xương đa cố cựu, đồng mãi đốn kê thang. Yên tỏa Tây Hồ thủy, chử kinh Yên Thái hương. Hà thành tư mỹ cảnh, tối nại khách tư lương.” Dịch nghĩa nôm na Gió lay trúc phất phơ, chuông Trấn Vũ xa thẳm, quán Thọ Xương nhiều ông bạn cũ, đều đến mua canh gà hầm. Khói sương vây bủa mặt nước hồ Tây, nhịp chày kinh động làng Yên Thái, cảnh đẹp này của Hà Thành, khiến khách nhớ nhung nhất. Phía dưới có một dòng chữ nhỏ, chú rằng “sau khi bài này làm ra, sĩ phu tranh nhau ngâm tụng. Bà Thọ chủ quán Thọ Xương mắng tiếng, đích thân đến nhà ta xin chữ, song lại cầu ta diễn ra quốc âm ngõ hầu hiểu được trọn nghĩa. Ta liền bỏ hai câu cuối mà diễn lại rằng “Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mùng khói tỏa ngàn sương Dịp chày Yên Thái mặt gương Tây hồ.” Thế là đã rõ nhé. Nếu tích trên có thật thì canh gà Thọ Xương đúng mà món canh gà, chẳng phải tiếng gà gáy sang canh như các nhà văn, nhà thơ đã tưởng. Phát hiện này mà đúng thì đó là sự kiện động trời trong văn học. Bác Hocmon có nhờ các anh chị nào có điều kiện ở Hà Nội, xin xác minh lại bài văn này với viện Hán Nôm dùm, có thật như vậy hay không ?. Sau khi đăng bài của “Hocmon”, HiệuMinh blog lại đăng thêm một đoạn lấy từ trang ... 59&page=11 “HiệuMinh Blog vừa tìm ra comment sau trên mạng cũng bàn về món canh gà khốn khổ Bác nào thử tìm trong thư viện Hán Nôm cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27 x 15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm xem có bài này không. Làm ơn chụp cả trang đưa lên cho bà con xem. “Sáng nay có cậu bạn làm trong Viện Hán Nôm bảo, trong sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27 x 15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm cũng chép bài thơ này. Xin lưu ý, Dương Khuê viết thơ bằng chữ Nôm, nỏ phải chữ Quốc ngữ. Nguyên văn viết chữ Canh là 羹 bát canh, món canh, không phải 更 canh khuya, canh chầy. Chứng tỏ canh gà là món ăn, chứ chả phải tiếng gà tiếng qué gì cả. Chắc hồi ấy các cụ đi tập thể dục từ sáng sớm, khi chùa Trấn Vũ đổ chuông, quán Thọ Xương mở hàng, các cụ rủ nhau vào ăn canh gà.”. Trang mạng phát tán. Dù ngôn ngữ của blog là lối nói thường dùng của lớp trẻ nhưng cũng khiến nhiều người kinh ngạc. Nhiều người xôn xao – kể cả các học giả, các nhà trí thức – bởi bấy lâu chữ “canh gà” vẫn được hiểu là tiếng gà báo sang canh… vậy mà nay hóa ra không phải – Canh gà lại là canh thịt gà ư ?! Nếu vậy thì việc cô giáo chấm bài văn, cho điểm 8 chưa hẳn là sai. Bài của Hocmon có nét đáng ngờ trước hết do lai lịch tác giả không rõ Hocmon chắc chắn không phải tên thật… và nếu cho là bút hiệu thì cũng không phải… vì xa lạ quá, chưa thấy xuất hiện ở trên tập san, báo chí nào, cũng chưa được trang mạng nào giới thiệu, ngôn ngữ lại có phần bỡn cợt… vậy mà nội dung lại có vẻ xác đáng bởi có kèm cả bài thơ chữ Hán, câu chữ khá chuẩn lại chỉ được đích danh cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh, nêu đúng cả số trang, khổ sách và cả kí hiệu trong thư viện Viện Hán Nôm nữa… khiến mọi người băn khoăn không ít. Các nhà nghiên cứu thấy có trách nhiệm trước vấn đề. Để làm sáng tỏ, trước hết Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Trịnh Khắc Mạnh đã tìm ở sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư tiên sinh ở Viện mà không thấy có bài thơ nào như trên. TS. Mạnh tìm thêm bài thơ chữ Nôm của Dương Khuê được nói đến thì thấy có bài Hà Nội tức cảnh trong sách Vân Trì Thi Thảo ký hiệu VHv. 2482, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bài thơ có 4 câu “Phất phơ ngọn trúc trăng tà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”… Đáng lưu ý là chữ “canh” ở đây được viết là 更chứ không phải là 羹 bát canh, món canh như blog Hiệu Minh đã nêu. Chữ 更 trong văn cảnh của bài thơ phải hiểu là canh giờ2, “canh gà Thọ Xương” là tiếng gà gáy báo canh ở Thọ Xương. Một ý kiến khác của Giảng viên Nguyễn Hùng Vỹ tại Đại học KHXH&NV Hà Nội khi trả lời phỏng vấn về câu chuyện trên “Theo như nguồn dẫn sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27×15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm thì không có bài thơ nào mang tên “Tối ức Thọ Xương thang” cả. Theo tôi, đây chỉ là một sản phẩm của “trí tưởng tượng” mà thôi, không có trong cuốn sách cổ nào hết. Đối với anh em trẻ thạo Hán Nôm thì từ cái tứ của Dương Khuê, bịa ra một bài chữ Hán na ná là không khó khăn gì …”3 Vậy là không có bài thơ nào gọi là Tối ức Thọ Xương Thang, cũng chẳng có bài thơ nôm nào của Dương Khuê lại viết chữ CANH là 羹. Đúng là chuyện bịa như thật và ai đó phải là người thông thuộc kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì mới biết rõ từng chi tiết sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư tiên sinh được lưu trữ – đồng thời cũng phải là người giỏi Hán Nôm mới bịa ra được chứng cứ như thật. Quả là chuyện oái oăm trong làng Văn chương Việt. Nguyễn Cẩm Xuyên ————————— CHÚ THÍCH 1 ... a-canh-ga/ 2Ngày xưa chia thời gian “Đêm 5 canh, ngày 6 khắc”. Canh 1 19g – 21g, canh 2 21g – 23g, canh 3 23g – 1g, canh 4 1g – 3g, canh 5 3h – 5h. 3 ... 4Ảnh trích từ ... ngày 19/10/2012 Nguồn
News Thứ sáu, 19/10/2012, 1552 GMT+7 Chữ 'canh' trong câu biểu đạt tiếng gà báo canh, không phải là bát canh hay món canh. Cô giáo nhập viện vì món 'canh gà Thọ Xương' Cư dân mạng bán tín bán nghi trước một số bằng chứng chứng minh “canh gà” trong cụm từ “canh gà Thọ Xương” ở văn bản gốc là từ để chỉ món ăn. Tuy nhiên sự thật đã được xác minh khi Viện Nghiên cứu Hán Nôm đưa ra bản thảo đúng. Trò đùa thời Internet Những ngày qua trên các trang mạng ồn ào chuyện truy tìm nguồn gốc khái niệm “canh gà” trong câu thơ “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương” được sách giáo khoa xếp vào thể loại ca dao. Câu chuyện bắt đầu từ sự kiện một giáo viên môn văn ở Hà Nội không sửa lỗi trong bài làm của học sinh lớp 7 khi các em diễn giải “canh gà Thọ Xương” trong bài ca dao được gọi tên Gió đưa cành trúc la đà là món ăn đặc sản. Để bênh vực cô giáo, một số cư dân mạng cho rằng người ta hoàn toàn có thể hiểu “canh gà Thọ Xương” là một món ăn gắn với địa danh Thọ Xương. Một cư dân mạng còn kể chuyện được thầy giáo cũ cho xem bút tích của nhà văn Vũ Bằng, trong đó có hai câu “Tương Bần, cà Láng, dưa La. Cá rô Đầm Sét, canh gà Thọ Xương”. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng, có một bài tục ngữ tương tự nói về các món ngon có nội dung tương tự nhưng tuyệt nhiên không có cụm từ “canh gà Thọ Xương”, đó là “Dưa La, cà Láng. Nem Báng, tương Bần. Nước mắm Vạn Vân. Cá rô Đầm Sét”. Kỳ công hơn, một cư dân mạng khác tạm gọi là nick Đ. đưa lên mạng xã hội một dẫn chứng đầy thuyết phục với những trích dẫn có địa chỉ xác thực. Theo nick Đ., nguyên bản cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập hiện đang lưu trữ tại thư Viện nghiên cứu Hán Nôm có một bài thơ chữ Hán mà nghĩa gần giống với bài thơ Hà Nội tứ cảnh của danh sĩ Dương Khuê. Bài thơ có tên Tối ức Thọ Xương thang Nhớ nhất canh Thọ Xương. Dịch nghĩa Gió lay trúc phất phơ, chuông Trấn Vũ xa thẳm, quán Thọ Xương nhiều ông bạn cũ, đều đến mua canh gà hầm. Khói sương vây bủa mặt nước hồ Tây, nhịp chày kinh động làng Yên Thái, cảnh đẹp này của Hà Thành, khiến khách nhớ nhung nhất. Bài thơ Hà Nội tứ cảnh trong đó có bút tích về 'Canh gà Thọ Xương'.Các bài viết trên nhanh chóng được lan truyền trên mạng với tốc độ chóng mặt, được nhiều diễn đàn bàn tán rôm rả. Canh gà là canh gà nào? PGS-TS Trịnh Khắc Mạnh, Viện trưởng Viện Hán Nôm, khẳng định ông không tìm thấy bất kỳ một bài thơ nào có nội dung như trên trong các tác phẩm của Dương Khuê được lưu trữ tại Viện. Ông Mạnh nói “Chiều 17/10, khi được hỏi, tôi đã tìm trong cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập nhưng chưa thấy bài thơ nào như trên. Tôi tiếp tục tìm lại vẫn không thấy. Tìm ở một cuốn khác, Vân Trì thi thảo mang ký hiệu VHv. 2482 thì thấy một bài thơ tiêu đề Hà Nội tứ cảnh với 4 câu thơ chữ Nôm “Phất phơ ngọn trúc trăng tà/Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/Mịt mù khói tỏa ngàn sương/Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”. PGS TS Trịnh Khắc Mạnh phải và một nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang xem lại trước tác của Dương bản chép bài thơ này, chữ “canh” trong câu “canh gà Thọ Xương” là chữ biểu đạt tiếng gà báo canh, trong khi đó chữ canh mới là chữ biểu đạt của bát canh, món canh”. Chia sẻ về hàm ý của khái niệm “canh gà” trong câu thơ “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”, các nhà nghiên cứu cây đa cây đề trong giới nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam cũng khẳng định, không thể có chuyện “canh gà” là món súp gà. PGS Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Hoành Khung nhận xét “Tôi chưa bao giờ hiểu “canh gà” trong bài thơ trên là khái niệm chỉ thực phẩm, dù vài ba năm nay có nghe ai đó đâu đó hiểu theo cách này. Việc truy tìm đến tận cùng của một văn bản hay lật lại vấn đề “canh gà” có phải là món canh gà cũng là cái hay mà các nhà nghiên cứu có thể làm, nhưng dẫu họ có tìm thấy cái gì đó chứng tỏ cụ Dương Khuê nói đến món “canh gà” thì điều đó cũng không thật sự ảnh hưởng lắm tới cách hiểu thông thường. Trong văn chương, cách hiểu chung về một văn bản chưa chắc đã là sai dù xuất xứ của nó có thể khác. Có rất nhiều sự thật văn học khác xa với cái mọi người vẫn biết, tìm hiểu để đi đến cùng cũng là cái hay”. Theo Tiền phong
*** Từ mấy mươi năm qua nhiều người vẫn thuộc bốn câu thơ tả cảnh đẹp Hà Nội xưa “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. Riêng ở miền Nam, người ta lại thường được nghe bài thơ có khác và chỉ có hai câu "Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.” Hai bài thơ tả cảnh gần giống nhau cảnh của hai cố đô thuộc hai miền Nam – Bắc. Điều trùng hợp lạ kì là Hà Nội và Huế đều có địa danh Thọ Xương. Ở Hà Nội có ngõ Thọ Xương. Đây là địa danh ngày xưa dùng đặt cho một huyện của Hà Nội cũ huyện Thọ Xương nay thuộc địa phận quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng. Từ đời nhà Lê về trước, đây là huyện Vĩnh Xương, đến đời nhà Mạc đổi thành Thọ Xương. Còn Thọ Xương ở Huế lại là một cái gò cao gần sông Hương. Khu rừng thông gần đó có xây kho chứa thóc gọi là Thọ Khương thượng khố kho chứa thóc Thọ Khương. Khi Gia Long lên ngôi năm 1802 vì kỵ húy Hiếu Khương Hoàng đế, Thọ Khương được đổi ra Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ năm 1824 lại đổi tên thành Long Thọ cương gò Long Thọ trên gò có dựng đình bát giác gọi là đình Long Thọ cương. Bên này sông Hương là gò Long Thọ. Bên kia bờ sông Hương có tháp 7 tầng của chùa Thiên Mụ. 1 Vậy là ngày xưa cả hai cố đô đều có địa danh Thọ Xương nên chỉ cần đổi chữ Thiên Mụ ra Trấn Vũ là cảnh đẹp Huế đã thành ra cảnh Hà Nội và ngược lại. BÀI THƠ THỨ NHẤT CÓ PHẢI LÀ CA DAO ? Bài thơ đầu bấy lâu nay vẫn được cho là ca dao. Điều này không đúng bởi ca dao là tác phẩm của quần chúng, không có tên tác giả trong khi 4 câu thơ của bài này thuộc bài thơ Hà Nội tức cảnh, tác giả là Dương Khuê, tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, đỗ Tiến sĩ và làm quan đời nhà Nguyễn. Tập thơ Vân Trì Thi Thảo của Dương Khuê ký hiệu VHv. 2482, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có chép bài thơ viết bằng bút lông, mực tàu xem ảnh. Ảnh chụp trang thơ “Vân Trì Thi Thảo” của Dương Khuê có chép bài thơ “Hà Nội tức cảnh 2 * Câu đầu bài thơ có chữ “TRĂNG” khoanh vòng tròn đỏ đã bị viết nhầm thành “trắng”. Bài thơ đánh máy lại cho rõ theo font chữ Nôm giữ nguyên lỗi chữ “trắng” Phiên âm HÀ NỘI TỨC CẢNH Phất phơ ngọn trúc trăng tà. Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương. Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”. Tập thơ Vân Trì thi thảo trước đây ít ai biết. Không riêng gì quần chúng mà ngay cả các nhà nghiên cứu như Xuân Diện, chuyên gia về Hán-Nôm trong bài “Đã tìm thấy câu thơ ..."Canh gà Thọ Xương" trong "Dương Gia phả ký" trên blog riêng đã viết “Trước hết, cho đến nay, sau nhiều năm tìm hiểu về thi văn của các tác gia họ Dương ở Vân Đình Ứng Hòa, Hà Tây cũ [ít nhất là từ năm 1993], chúng tôi chưa từng gặp một văn bản Hán Nôm nào chép bài thơ trên...” . "Dương Gia phả ký", bản đánh máy chữ quốc ngữ trên giấy tây, do Dương Thiệu Cương lập vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1973 gồm 122 trang. Từ trang 106 có bài thơ "Hà Thành tức cảnh”. Bài thơ này có mấy chữ khác với bản chữ Nôm trong Vân Trì Thi Thảo. Tư liệu trích từ blog của TS. Nguyễn Xuân Diện. Vào thời điểm cách đây hơn 10 năm, sau khi nhận được thư của ông Dương Nghiệp Bảo thuộc dòng dõi cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê từ Manila gửi về đề ngày TS. Nguyễn Xuân Diện đã giới thiệu bản đánh máy bằng chữ quốc ngữ "Dương Gia phả ký” do Dương Thiệu Cương biên soạn vào cuối mùa hạ năm Quý Sửu 1973 và được Dã Lan Nguyễn Đức Dụ in. "Dương Gia phả ký" từ trang 106 bắt đầu chép thơ của cụ Nghè Vân Đình Dương Khuê và cũng ngay trang này có bài thơ "Hà Thành tức cảnh", gồm 4 câu thơ nêu trên. TS. Nguyễn Xuân Diện cùng ghi chú thêm “Trong sách Tâm trạng Dương Khuê - Dương Lâm, Nxb KHXH, Hà Nội, 2005, tác giả Dương Thiệu Tống cho biết "Bài thơ này chép và chú thích theo Dương gia phả ký và Luận đề về Dương Khuê” Nguyễn Duy Diễn Luận đề về Dương Khuê. Nhà in Khai trí, Sài Gòn, 1960, trang 160. Như vậy, từ năm 1960, tài liệu Luận đề về Dương Khuê đã khẳng định bài Hà thành tức cảnh là của Dương Khuê. Xưa hơn thế, sách Văn đàn bảo giám, tuyển tập thơ ca do Trần Trung Viên sưu tập […] cũng khẳng định Hà Thành tức cảnh là của tác giả Dương Khuê. Tuyển tập thi ca Văn đàn bảo giám xuất bản chỉ cách năm Dương Khuê tạ thế 1902 khoảng hai ba chục năm, vì thế, có thể tin được”. Vậy là nay ta đã có nhiều chứng cứ xác định rõ bốn câu thơ tả cảnh đẹp Hà Nội trên không phải là ca dao mà là một bài thơ của nền Văn học viết thời thuộc Pháp. Chỉ có điều lạ là ai đã sửa câu thơ đầu của nguyên bản “Phất phơ ngọn trúc trăng tà” thành ra “Gió đưa cành trúc la đà”? Dương Thiệu Tống là cháu nội của Dương Khuê đã cho rằng "Có người đã sửa đổi câu thơ này là Gió đưa cành trúc la đà, nhưng có lẽ là sai vì làm mất đi ý nghĩa ẩn dụ của toàn câu mà chỉ có ý nghĩa tả cảnh mà thôi".3 BÀI THƠ THỨ NHÌ CÓ PHẢI LÀ DÂN CA ? Tìm trong kho sách văn học nước ta thấy có du kí “Mười ngày ở Huế” của học giả Phạm Quỳnh đăng trên báo Nam Phong về sau được NXB Văn Học in thành sách năm 2001. Ở chương IV của thiên du kí này có đoạn viết như sau “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bẩy từng, ở ngay trên bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát, ấy mới rõ cái tính tình của người xứ Huế…” 4 Vậy là chính Phạm Quỳnh đã xác nhận hai câu thơ trên là câu ca của con trẻ…. nhưng ai là người đặt câu ca ấy? Chính Phạm Quỳnh hay người dân xứ Huế? Điều này nay ta chưa được rõ, chỉ biết ở miền Nam xưa hầu như ai cũng biết đến hai câu thơ tả cảnh đẹp của Huế… rồi đến khoảng thập niên 60 khi bài hát Thương về cố đô của Châu Kỳ được phổ biến rộng rãi thì người ta biết thêm hai câu cuối “Thuyền về xuôi mái sông Hương/ Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay”. Có người cho rằng Châu Kỳ đã phổ nhạc cả 4 câu từ một bài dân ca Huế. Chùa Thiên Mụ bên sông Hương “TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ ” & “TIẾNG CHUÔNG TRẤN VŨ ” ĐÂU LÀ NGUYÊN BẢN? Điều mà nhiều người đến nay vẫn thắc mắc là tại sao mấy câu thơ của Dương Khuê 1839-1902 và Phạm Quỳnh 1892-1945 lại có nhiều nét giống nhau đến vậy! Dương Khuê người phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, nay thuộc huyện Ứng Hòa, Hà Nội; còn Phạm Quỳnh tuy về sau vào Huế làm Chủ bút báo Nam Phong rồi làm quan Thượng Thư của triều Bảo Đại nhưng cũng là người sinh trưởng ngay giữa phố phường Hà Nội. Có thể chính Phạm Quỳnh đã đọc các câu thơ của Dương Khuê rồi cảm cái hồn thơ ấy mà viết nên mấy câu cho xứ Huế. Biết đâu Phạm Quỳnh đã lấy hai câu đầu của bài thơ rồi đổi Trấn Vũ thành Thiên Mụ? Cũng có ý kiến ngược lại, cho rằng Dương Khuê lúc cuối đời, chán cảnh quan trường thời thuộc Pháp mà treo ấn từ quan rồi đi ngao du sơn thủy… vào đến Huế nghe bài dân ca tả cảnh đẹp xứ Huế… đến lúc về lại Hà Nội đã cảm tác mà làm nên bài thơ tả cảnh với 4 câu nay ta đọc thấy trong Vân Trì Thi Thảo. Bài thơ sớm phổ biến rộng rãi rồi nhiều người đã lầm tưởng đây là bài ca dao dân dã ca ngợi cảnh đẹp Hà Nội. - CHÚ THÍCH Phạm Quỳnh trong “Mười ngày ở Huế” cho rằng Thọ Xương trong câu ca là làng Thọ Xương. Ở Huế có làng chài Thọ Khương gần làng Nguyệt Biều. Ảnh trích từ ngày 19/10/2012. Dương Thiệu Tống, Tâm trạng của Dương Khuê và Dương Lâm, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 2005. Phạm Quỳnh; Mười ngày ở Huế Phần IV - NXB Văn học, 2001.
Trong kho tàng văn học Việt Nam bốn câu thơ Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ đã được rất nhiều người, nhiều thế hệ nhớ tới như một phẩm vật văn hóa quý giá được lưu truyền trong dân gian. Bốn câu thơ đơn giản này lại là đề tài cho nhiều câu chuyện bên lề khó quên. Hai chữ “canh gà” trong câu thơ vốn mang ý nghĩa là thời khắc vào ban đêm thì lại được không ít người diễn giải trệch ra thành một món canh thịt gà, có nguồn gốc từ xóm Thọ Xương Hà Nội. Từ những ý tưởng trái nghịch này, hai chữ canh gà ra tới hải ngoại với một căn cước mới bằng tiếng Anh là “chicken soup”, từ đó nhiều khi người đọc bối rối không biết cái bát súp gà kia tại sao lại chiếm thời gian của nhiều người đến thế. Thật ra điểm mấu chốt của bài thơ khiến người ta thường lầm lẫn vì nghĩ rằng nó là bốn câu ca dao được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Tác giả của bốn câu thơ thân quen này là ai và điều gì làm cho nó nổi tiếng như vậy? Mặc Lâm mời quý vị theo dõi câu chuyện này qua cuộc trao đổi giữa chúng tôi và TS Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện để tìm hiểu thêm về một tác giả mà chính ông Diện do cơ duyên trong khi đi nghiên cứu đã tìm thấy câu trả lời thú vị từ một dòng họ nức tiếng của đất Hà Thành. Của tác giả Dương Khuê 4 câu thơ chữ Nôm được viết trong Vân Trì thi thảo, chữ 'canh' được đánh dấu bằng vòng tròn đỏ. Photo courtesy of blog Nguyễn Xuân Diện. Mặc Lâm Thưa xin chào TS. Như chúng ta đã biết vài ngày qua dư luận đã dấy lên một cơn lốc phản ứng trước việc một cô giáo bỏ qua chi tiết sai trong một bài luận văn của một học sinh khi em này viết rằng “canh gà Thọ Xương” là một món canh gà rất ngon. Cô giáo này cho biết là do sơ ý chứ không phải vì thiếu kiến thức hay chủ quan trong vấn đề giảng dạy. Nhân câu chuyện lầm lẫn này chúng tôi được biết TS là người có cơ may tiếp cận được với các văn bản có liên quan đến bài thơ này từ rất sớm chứng minh bốn câu thơ này là của một tác giả uyên thâm, đó là cụ Dương Khuê chứ không phải là ca dao như nhiều người thường nghĩ. Câu chuyện bắt đầu như thế nào thưa TS? TS Nguyễn Xuân Diện Khoảng năm 1993 tôi có đưa một bạn sinh viên của ngành Hán Nôm tới Vân Đình tức là thủ phủ của huyện Ứng Hòa mà ngày xưa là huyện Ứng Thiên, bây giờ là huyện Ứng Hòa của Hà Nội để làm một bài luận văn tốt nghiệp đại học về sự nghiệp giáo dục của Dương Lâm, vì lúc ấy tôi cũng tranh thủ nghiên cứu về thơ văn của các tác giả họ Dương. Ở đây nhân vật mà tôi muốn đề cập đến là tác giả Dương Khuê. Ngoài chuyện quan tâm đến ca trù thì tôi có để ý đến một số thơ văn khác của cụ nghè Vân Đình tức là cụ Dương Khuê. Lúc bấy giờ một cụ trưởng tộc họ Dương đã trao cho chúng tôi một bản photo của cuốn Dương Gia Phả Ký. Cuốn Dương Gia Phả Ký này là một bản đánh máy bằng chữ quốc ngữ trên giấy Tây do Dương Thiết Cương vào cuối mùa hạ Quý Sửu tức là năm 1943 và đã được một nhà nghiên cứu về gia phả học rất nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975 do Nhã Lan Nguyễn Đức Dụ in ấn. Cuốn Dương Gia Phả Ký này gồm có 122 trang, ngoài việc chép các sinh hoạt của gia tộc họ Dương bắt đầu từ cụ Dương Phan thì còn chép rất nhiều thơ văn, đối liễn của các tác giả họ Dương này. Bắt đầu từ trang 106 thì có chép thi ca của cụ Dương Khuê, tức cụ nghè Vân Đình biệt hiệu là Vân Trì. Cũng ngay trang này ở bài thứ hai thì có bài Hà Thành Tức Cảnh có bốn câu thơ có một vài chữ khác với bài thơ mà chúng ta vẫn thường bắt gặp đó là Phất phơ cành trúc trăng tàTiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ Căn cứ vào đề từ của bài thơ chúng ta thấy Hà Thành ở đây tức là Hà Nội và như vậy Thọ Xương là địa danh thuộc Hà Nội. Mặc Lâm Thưa xin được ngắt lời TS, còn chữ An Thái thì có người cũng viết là Yên Thái, có gì khác nhau giữa hai danh từ này? TS Nguyễn Xuân Diện Trong văn bản viết thì An Thái thực ra là Yên Thái vì trong chữ Hán thì chữ An và chữ Yên viết là một chữ nhưng có hai âm đọc. Đấy là cái văn bản mà chúng tôi được thấy bài thơ này trong Dương Gia Phả Ký và từ đó đến nay thì luôn luôn chúng tôi để ý tìm trong các thi văn của các tác giả họ Dương ở Vân Đình. Trong kho sách của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm cũng như trong các trang thư cá nhân khác, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm thấy bài thơ này viết bằng văn bản Hán Nôm. Trong cuốn “Tâm trạng Dương Lâm - Dương Khuê” xuất bản lần đầu vào năm 1995 và tái bản năm 2005 của tác giả Dương Thiệu Tống, cụ là giáo sư Tiến sĩ và là cháu nội của cụ Dương Lâm đã cho biết bài thơ đó chép theo Dương Gia Phả Ký và cuốn luận đề về Dương Khuê mà cuốn này lại do Nguyễn Duy Diễn xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1960. Như vậy ngay từ năm 1960 thì tài liệu luận đề về Dương Khuê đã khẳng định Hà Thành Tức Cảnh là của Dương Khuê nhưng lần giở xa xôi hơn nữa thì trong cuốn Văn Đàn Bảo Giám là tuyển tập thi ca do Trần Trung Duyên sưu tập, cụ Dương Bá Trạc đề tựa, sau đấy cụ Tản Đà cũng đề tựa vào năm 1934 có ba tập xuất bản từ năm 1926. Cho đến năm 1938 thì trọn bộ. Bài Hà Thành Tức Cảnh được chép trong các sách đó cũng ghi tác giả là Dương Khuê. Văn Đàn Bảo Giám xuất bản sau khi Dương Khuê tạ thế khoảng 2-30 năm. Như vậy khi Văn Đàn Bảo Giám xuất hiện thì các con cháu của các cụ Dưong Lâm và Dương Khuê vẫn còn đang sống và do đó rất đáng tin. Tôi cho rằng bài thơ Hà Thành Tức Cảnh mà sau đó người ta cứ tưởng là một bài ca dao thì đích thực là của tác giả Dương Khuê. Mặc Lâm Thưa TS nhiều người rất bối rối vì sự xuất hiện của câu thơ khác hẳn những gì mà chúng ta đang bàn ở đây vì địa danh thì gống nhưng địa điểm danh thắng thì hoàn toàn khác đó là câu Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. TS có giải thích thế nào về cái khác nhau giữa Trấn Võ và Thiên Mụ? TS Nguyễn Xuân Diện Khi người ta đọc câu Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ… Theo như cụ Hoàng Đạo Thúy thì nói bài này ở Hà Nội, thế nhưng trong một bút ký của học giả Phạm Quỳnh trong những ngày ở Huế có tả một đoạn nói về Thiên Mụ và học giả Phạm Quỳnh có bình là “cả hồn thơ xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là cái danh lam có tháp bảy tầng ở ngay bờ sông Hương. Làng Thọ Xương thì ở bên kia song, ban đêm nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng giữa khoảng trời nước long lanh mà cảm, đọc thành câu ca ấy mới rõ cái tính tình người xứ Huế”. Như vậy cụ học giả Phạm Quỳnh đã dùng ý tứ của cụ Dương Khuê để viết lại cho hợp với địa danh của Huế có chùa Thiên Mụ và làng chài Thọ Xương, hay còn gọi là Thọ Khương, hay Thọ Cương, hoặc là Long Thọ Cương. Theo như nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thanh của Viện Hán Nôm thì cho rằng Phạm Quỳnh viết dựa trên câu thơ của Dương Khuê hoặc từ kinh nghiện văn hóa dân gian bản địa. Đấy là quá trình truyền bản của mấy câu thơ liên quan đến Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương… Không phải 'canh gà' Hồ Tây Hà Nội. Photo courtesy of blog Nguyễn Xuân Diện. Mặc Lâm Sau khi cô giáo dạy văn cho điểm tám đối với bài viết về canh gà của một học sinh mô tả đây là loại súp gà rất ngon thì dư luận lại đưa ra nhiều câu chuyện minh chứng cho bài viết của em học sinh này là đúng. Đáng chú ý là một bài viết cho rằng còn trong thư viện của Viện Hán Nôm với ký hiệu hẳn hoi cũng của cụ Dương Khuê tên là “Vân Đình Tiến sĩ Dưong Khuê Thượng thư Tiên sinh”, nhưng cụ kể câu chuyện của mình về hai chữ “canh gà” là do cụ viết ca ngợi món canh gà rất ngon tại ngõ Thọ Xương Hà Nội. Việc này thực hư thế nào thưa TS? TS Nguyễn Xuân Diện Mấy người trên mạng nói là đã đến Viện Hán Nôm và tìm cuốn này với ký hiệu là A2185, trong đó có chép bài thơ gọi là Tối Ức Thọ Xương Thang tức là nhớ nhất món canh Thọ Xương của cụ Dương Khuê. Đấy chỉ là những điều họ bày đặt ra cho vui vẻ trong thời gian căng thẳng như thế này thôi chứ không phải là một câu chuyện thật. Mặc Lâm Cũng có một câu chuyện trên mạng kể rằng bốn câu thơ này nói về món canh gà trong thực đơn của nhà văn Vũ Bằng vì nhà văn này từng nổi tiếng với những món ngon Hà Nội… Câu chuyện này rõ ràng là khó tin vì nhà văn Vũ Bằng chỉ là một hậu bối so với sự xuất hiện của bốn câu thơ này. TS thấy sao? TS Nguyễn Xuân Diện Có người cho rằng canh gà là một món ăn nhưng không ai đưa ra một tác phẩm nào chứng minh rằng đúng là món canh gà trong câu thơ này. Có một tác giả là Lê Quang, kể một câu chuyện rất lâm ly khi ông ấy đến gặp một cụ già năm nay đã 95 tuổi cho biết là ngày xưa đã giao du với Nguyễn Bính, Đinh Hùng và các nhà thơ khác. Tác giả Lê Quang kể một câu chuyện là khi ông ấy đến hỏi cụ già ấy về canh gà Thọ Xương thì cụ ấy đã rón rén mở một tập tài liệu ra trong đó có những trang thủ bút của nhà văn Vũ Bằng đã hoen mực và ông ấy viết là Canh gà Thọ Xương là một cái tên trong các món ăn Hà Nội lúc bấy giờ. Tất nhiên người cung cấp câu chuyện không có một bức ảnh cho thấy cái gọi là thủ bút ấy của nhà văn Vũ Bằng. Khi công dân mạng người ta dồn quá thì anh này thú nhận là anh ta bịa ra cho vui thôi. Mặc Lâm Để kết thúc câu chuyện về canh gà hôm nay theo TS thì chi tiết văn chương nào chứng minh rằng canh gà Thọ Xương là nói về thời gian mà hoàn toàn không dính líu gì tới món ăn như những người thích đùa nêu ra …TS Nguyễn Xuân Diện Trong tình hình hiện nay chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn là bốn câu thơ này vốn xuất phát từ bốn câu Phất phơ cành trúc trăng tàTiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ XươngMịt mùng khói tỏa ngàn sươngNhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ vốn là của Vân Trì Dương Khuê người ở Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội. Trong câu Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương thì nó đã dựng lên một tiểu đối trong phép làm thơ lục bát rất đẹp. “Tiếng chuông Trấn Võ” đối với “Canh gà Thọ Xương”. Tiếng chuông gồm có chuông sáng và chuông chiều nói về quy định thời gian trong nhà chùa. Canh gà thì nói về thời khắc chia thời gian trong đêm. Như vậy tiếng chuông Trấn Võ là một cách để người ta chỉ thời gian của sinh hoạt về tôn giáo. Canh gà Thọ Xương là tiếng gà gáy trong các vùng quê ven Hồ Tây thì đấy là tiếng báo giờ trong dân gian, nó tạo nên một tiểu đối và cả bài thơ tả một cảnh yên bình, đẹp đẽ và thơ mộng của Hồ Tây chứ không thể lẫn vào món canh gà như là bát canh, bát súp gà được. Mặc Lâm Xin cám ơn TS Nguyễn Xuân Diện. Thưa quý thính giả, vậy là chúng ta có thể yên tâm khi đã có tài liệu khả tín về bốn câu thơ dễ thương này. Hy vọng rằng từ nay, mỗi khi nghe tiếng võng kẽo kẹt trưa hè của ai đó đưa con bằng bốn câu lục bát chân phương này chúng ta sẽ không nghe mùi hương ngào ngạt từ một chị gà mái nào đó mà thay bằng mùi hương hoa bưởi, hoa lài của một Hà Nội lung linh tiếng chuông chùa Trấn Võ. Dù hiểu bài thơ bằng cách nào cũng cho thấy tình yêu thương của người dân ba miền đã thấm đẫm cái hồn cốt Trấn Võ, Thọ Xương vào sâu trong đời sống của họ. Yên Thái tuy ngày nay không còn tiếng chày vào buổi sáng mịt mùng nhưng Tây Hồ vẫn đời đời lung linh sắc xám của những buổi sáng đẫm sương Hà Nội. Theo dòng thời sự Chuyện về những bài văn lạ Nhà văn Mạc Ngôn Hoa Địa Ngục Còn đâu Chùa Trăm Gian! Nhà Thơ Trúc Ty
tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương